ngân hàng chính sách xã hội việt nam
Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (tên giao dịch tiếng Anh: Vietnam Bank for Social Policies, viết tắt: VBSP) là tổ chức tín dụng thuộc Chính phủ Việt Nam, được thành lập theo Quyết định 131/2002/QĐ-TTg ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Khác với ngân hàng thương mại, Ngân hàng Chính sách xã hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được Chính phủ Việt Nam bảo đảm khả năng thanh toán; tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng là 0%; Ngân hàng không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước.
lịch sử hình thành ngân hàng chính sách xã hội việt nam
Tại Nghị quyết số 05-NQ/HNTW, ngày 10/6/1993 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, về việc tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, Đảng ta chủ trương có chế độ tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo, hộ chính sách, vùng nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng căn cứ cách mạng; mở rộng hình thức cho vay thông qua tín chấp đối với các hộ nghèo…
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Đảng và Chiến lược quốc gia về xóa đói giảm nghèo, năm 1993, Chính phủ đã thành lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo với số vốn ban đầu là 400 tỷ đồng, do Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Nhà nước đóng góp. Quỹ được sử dụng cho vay hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh với lãi suất ưu đãi, mức cho vay 500.000 đồng/hộ, người vay không phải bảo đảm tiền vay.
Từ kinh nghiệm thực tiễn hai năm thực hiện Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo, ngày 31/8/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 525/QĐ-TTg về việc thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo, đặt trong Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt Nam), hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, để cung cấp nguồn vốn ưu đãi cho hộ nghèo thiếu vốn sản xuất.
Với mô hình tổ chức được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương trên cơ sở tận dụng bộ máy và màng lưới sẵn có của NHNo&PTNT Việt Nam, Ngân hàng Phục vụ người nghèo đã thiết lập được kênh tín dụng riêng để hỗ trợ tài chính cho các hộ nghèo ở Việt Nam với các chính sách tín dụng hợp lý, giúp hộ nghèo có vốn sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, từng bước làm quen với nền sản xuất hàng hoá và có điều kiện thoát khỏi đói nghèo.
Tuy nhiên, từ bộ phận quản trị đến bộ phận điều hành của Ngân hàng Phục vụ người nghèo đều làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên rất ít thời gian để nghiên cứu những vấn đề thực tiễn, hạn chế công việc nghiên cứu đề xuất chính sách, cơ chế quản lý điều hành. Mọi hoạt động về nghiên cứu, đề xuất cơ chế chính sách đều giao cho ban điều hành nghiên cứu soạn thảo trong khi ban điều hành đang thuộc NHNo&PTNT Việt Nam. Như vậy, không tách được chức năng hoạch định chính sách và điều hành theo chính sách.
Hơn nữa, bên cạnh Ngân hàng Phục vụ người nghèo, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách khác còn được giao cho nhiều cơ quan Nhà nước, hội đoàn thể và Ngân hàng thương mại Nhà nước cùng thực hiện theo các kênh khác nhau, làm cho nguồn lực của Nhà nước bị phân tán, chồng chéo, trùng lắp, thậm chí cản trở lẫn nhau. Bên cạnh nguồn vốn cho vay hộ nghèo được Ngân hàng Phục vụ người nghèo và NHNo&PTNT Việt Nam thực hiện thì thực tế còn có: nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm do Kho bạc Nhà nước quản lý và cho vay; nguồn vốn cho vay đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn do Ngân hàng Công thương thực hiện; nguồn vốn cho vay ưu đãi các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo, thuộc khu vực II, III miền núi, các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 của Chính phủ…
Việc hình thành các nguồn vốn cho vay chính sách nằm rải rác ở nhiều tổ chức tài chính với cơ chế quản lý khác nhau đã gây nhiều trở ngại cho quá trình kiểm soát của Nhà nước, không tách bạch được tín dụng chính sách với tín dụng thương mại.
Để triển khai Luật các tổ chức tín dụng trong việc thực hiện chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách; các nghị quyết của Đại hội Đảng IX, nghị quyết kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá X về việc sớm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của NHCSXH, tách tín dụng ưu đãi ra khỏi tín dụng thương mại; đồng thời thực hiện cam kết với Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) về việc thành lập Ngân hàng Chính sách; ngày 04/10/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg về việc thành lập NHCSXH trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo, tách khỏi NHNo&PTNT Việt Nam.
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Đảng và Chiến lược quốc gia về xóa đói giảm nghèo, năm 1993, Chính phủ đã thành lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo với số vốn ban đầu là 400 tỷ đồng, do Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Nhà nước đóng góp. Quỹ được sử dụng cho vay hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh với lãi suất ưu đãi, mức cho vay 500.000 đồng/hộ, người vay không phải bảo đảm tiền vay.
Từ kinh nghiệm thực tiễn hai năm thực hiện Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo, ngày 31/8/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 525/QĐ-TTg về việc thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo, đặt trong Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt Nam), hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, để cung cấp nguồn vốn ưu đãi cho hộ nghèo thiếu vốn sản xuất.
Với mô hình tổ chức được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương trên cơ sở tận dụng bộ máy và màng lưới sẵn có của NHNo&PTNT Việt Nam, Ngân hàng Phục vụ người nghèo đã thiết lập được kênh tín dụng riêng để hỗ trợ tài chính cho các hộ nghèo ở Việt Nam với các chính sách tín dụng hợp lý, giúp hộ nghèo có vốn sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, từng bước làm quen với nền sản xuất hàng hoá và có điều kiện thoát khỏi đói nghèo.
Tuy nhiên, từ bộ phận quản trị đến bộ phận điều hành của Ngân hàng Phục vụ người nghèo đều làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên rất ít thời gian để nghiên cứu những vấn đề thực tiễn, hạn chế công việc nghiên cứu đề xuất chính sách, cơ chế quản lý điều hành. Mọi hoạt động về nghiên cứu, đề xuất cơ chế chính sách đều giao cho ban điều hành nghiên cứu soạn thảo trong khi ban điều hành đang thuộc NHNo&PTNT Việt Nam. Như vậy, không tách được chức năng hoạch định chính sách và điều hành theo chính sách.
Hơn nữa, bên cạnh Ngân hàng Phục vụ người nghèo, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách khác còn được giao cho nhiều cơ quan Nhà nước, hội đoàn thể và Ngân hàng thương mại Nhà nước cùng thực hiện theo các kênh khác nhau, làm cho nguồn lực của Nhà nước bị phân tán, chồng chéo, trùng lắp, thậm chí cản trở lẫn nhau. Bên cạnh nguồn vốn cho vay hộ nghèo được Ngân hàng Phục vụ người nghèo và NHNo&PTNT Việt Nam thực hiện thì thực tế còn có: nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm do Kho bạc Nhà nước quản lý và cho vay; nguồn vốn cho vay đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn do Ngân hàng Công thương thực hiện; nguồn vốn cho vay ưu đãi các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo, thuộc khu vực II, III miền núi, các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 của Chính phủ…
Việc hình thành các nguồn vốn cho vay chính sách nằm rải rác ở nhiều tổ chức tài chính với cơ chế quản lý khác nhau đã gây nhiều trở ngại cho quá trình kiểm soát của Nhà nước, không tách bạch được tín dụng chính sách với tín dụng thương mại.
Để triển khai Luật các tổ chức tín dụng trong việc thực hiện chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách; các nghị quyết của Đại hội Đảng IX, nghị quyết kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá X về việc sớm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của NHCSXH, tách tín dụng ưu đãi ra khỏi tín dụng thương mại; đồng thời thực hiện cam kết với Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) về việc thành lập Ngân hàng Chính sách; ngày 04/10/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg về việc thành lập NHCSXH trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo, tách khỏi NHNo&PTNT Việt Nam.
ý nghĩa logo ngân hàng chính sách xã hội việt nam
Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) có biểu trưng Logo hình búp sen. Biểu trưng ấy được tạo thành bởi hình ảnh cách điệu của 2 bàn tay đan nhau, tạo hình 2 chữ N (viết tắt của từ Người nghèo) và tạo thành 3 khối chéo trên đỉnh, tượng trưng cho 03 miền Bắc - Trung - Nam. Phía dưới biểu trưng Logo mang dòng chữ “VBSP” là chữ viết tắt tên tiếng Anh của NHCSXH (Vietnam Bank For Social Policies) tạo đài hoa như một bệ đỡ vững chắc, thể hiện tinh thần vì người nghèo và những cam kết của NHCSXH, đoàn kết chung tay cùng người dân trong cả nước, hướng về người nghèo, đồng hành cùng người nghèo, giúp đỡ người nghèo chống lại đói nghèo và sự lạc hậu với ước vọng xây dựng đất nước mạnh giàu, xã hội dân chủ - công bằng - văn minh.
Với biểu trưng gắn liền với hình ảnh của loài hoa thanh tao, thuần khiến có sức sống mãnh liệt, thân thiện, gắn liền với đời sống con người và cảnh sắc làng quê Việt Nam, nhắc nhở cán bộ NHCSXH không ngừng nỗ lực phấn đấu; vượt qua khó khăn, thử thách; cần - kiệm - liêm chính - chí công - vô tư; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cao cả mà Đảng - Quốc hội - Chính phủ và nhân dân cả nước đã tin tưởng giao phó.
Với biểu trưng gắn liền với hình ảnh của loài hoa thanh tao, thuần khiến có sức sống mãnh liệt, thân thiện, gắn liền với đời sống con người và cảnh sắc làng quê Việt Nam, nhắc nhở cán bộ NHCSXH không ngừng nỗ lực phấn đấu; vượt qua khó khăn, thử thách; cần - kiệm - liêm chính - chí công - vô tư; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cao cả mà Đảng - Quốc hội - Chính phủ và nhân dân cả nước đã tin tưởng giao phó.
Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH)
NHCSXH được thành lập để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Hoạt động của NHCSXH không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước.
NHCSXH được thực hiện các nghiệp vụ: huy động vốn, cho vay, thanh toán, ngân quỹ và được nhận vốn uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội.
NHCSXH là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế của Nhà nước nhằm giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo và đối tượng chính sách có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống, vươn lên thoát nghèo, góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, vì mục tiêu dân giàu - nước mạnh - dân chủ - công bằng - văn minh.
Hoạt động của NHCSXH không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước.
NHCSXH được thực hiện các nghiệp vụ: huy động vốn, cho vay, thanh toán, ngân quỹ và được nhận vốn uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội.
NHCSXH là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế của Nhà nước nhằm giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo và đối tượng chính sách có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống, vươn lên thoát nghèo, góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, vì mục tiêu dân giàu - nước mạnh - dân chủ - công bằng - văn minh.
Các phần thưởng cao quý của ngân hàng chính sách xã hội việt nam
Năm | Danh hiệu khen thưởng | Nội dung khen thưởng | Thẩm quyền khen thưởng |
2004 | Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ | Thành tích trong công tác từ năm 2002 đến năm 2004, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc | Quyết định số 395/QĐ-TTg ngày 16/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ |
2006 | Cờ thi đua của Chính phủ | Thành tích hoàn thành xuất sắc toàn diện nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua năm 2006 của Ngành ngân hàng | Quyết định số 743/QĐ-TTg ngày 14/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ |
2008 | Cờ thi đua của Chính phủ | Thành tích hoàn thành xuất sắc toàn diện nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua năm 2008 của Ngành ngân hàng | Quyết định số 1009/QĐ-TTg ngày 16/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ |
2009 | Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ | Thành tích thực hiện một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống nhân dân và từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nông nghiệp, nông thôn | Quyết định số 1403/QĐ-TTg ngày 09/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Quyết định số 67 /1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Chính phủ |
2010 | Cờ thi đua của Chính phủ | Thành tích hoàn thành xuất sắc toàn diện nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua năm 2010 của Ngành ngân hàng | Quyết định số 1372/QĐ-TTg ngày 12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ |
2011 | Cờ thi đua của Chính phủ | Thành tích hoàn thành xuất sắc toàn diện nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua năm 2011 của Ngành ngân hàng | Quyết định số 932/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ |
2012 | Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ | Thành tích trong công tác triển khai thực hiện Quyết định số 157/QĐ-TTg về tín dụng đối với Học sinh sinh viên | Quyết định số 233/QĐ-TTg ngày 25/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ |
2014 | Cờ thi đua của Chính phủ | Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua năm 2014 của ngành Ngân hàng | Quyết định số 788/QĐ-TTg ngày 05/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ |
2015 | Cờ thi đua của Chính phủ | Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua năm 2015 của ngành Ngân hàng | Quyết định số 1799/QĐ-TTg ngày 19/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ |
Hội, Đoàn thể nhận ủy thác một số công đoạn cho vay
Ngân hàng Chính sách xã hội có hai phương thức cho vay: cho vay trực tiếp và cho vay ủy thác. Trong hai phương thức này, cho vay ủy thác chiếm hơn 98% tổng dư nợ (2017). Cho vay ủy thác nghĩa là Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện ủy thác một số công đoạn trong quy trình cho vay cho bốn tổ chức chính trị - xã hội (gọi tắt là Hội, Đoàn thể) gồm Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Nội dung ủy thác có thể tóm tắt là:
Quan hệ giữa Ngân hàng và Hội, Đoàn thể được xác lập qua văn bản liên tịch, văn bản thỏa thuận (cấp trung ương); văn bản liên tịch (cấp tỉnh, huyện) và hợp đồng ủy thác (cấp xã).
- Thông báo và phổ biến các chính sách tín dụng có ưu đãi đến đối tượng thụ hưởng; tập huấn công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,... để giúp người vay sử dụng vốn vay có hiệu quả; họp đánh giá định kỳ hoặc đột xuất
- Tham gia buổi bình xét công khai hộ vay vốn của tổ tiết kiệm và vay vốn (tổ TK&VV); chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động của tổ TK&VV
- Phối hợp với các bên có liên quan kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay, đôn đốc hộ vay trả nợ.
Quan hệ giữa Ngân hàng và Hội, Đoàn thể được xác lập qua văn bản liên tịch, văn bản thỏa thuận (cấp trung ương); văn bản liên tịch (cấp tỉnh, huyện) và hợp đồng ủy thác (cấp xã).
Tổ tiết kiệm và vay vốn (tổ TK&VV)
Tổ tiết kiệm và vay vốn (tổ TK&VV) là một tập hợp các hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống. Các thành viên (tổ viên) tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh và đời sống, đồng thời cùng giám sát nhau trong việc vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ Ngân hàng. Một tổ TK&VV phải có tối thiểu 5 tổ viên và tối đa là 60 tổ viên; các tổ viên phải cư trú hợp pháp theo địa bàn dân cư thuộc đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, trong đó các tổ viên được sắp xếp theo hướng liền canh, liền cư. Đến 2017 có 187.151 tổ TK&VV đang hoạt động.
Tổ hoạt động theo nguyên tắc tập thể, biểu quyết theo đa số dưới sự điều hành của ban quản lý tổ (một tổ trưởng và một tổ phó). Trong quy trình cho vay, họp bình xét cho vay là điều kiện tiên quyết để xét cho vay. Sau khi tiếp nhận đề nghị vay vốn từ phía hộ vay là thành viên của tổ (nếu chưa thì cần được xét kết nạp vào tổ), tổ trưởng tổ TK&VV chủ trì buổi họp bình xét cho vay, trong đó hộ vay có nhu cầu vay vốn nhất thiết phải được sự chấp thuận bằng biểu quyết của ít nhất 2/3 tổ viên tổ TK&VV hiện diện tại buổi họp bình xét công khai về vay vốn, với điều kiện phải có ít nhất 2/3 tổ viên tổ TK&VV đến dự buổi họp. Toàn bộ nội dung cuộc họp đều được ghi thành biên bản, gọi là biên bản họp tổ, do tổ phó là thư ký ghi chép lại. Buổi họp có sự chứng kiến của đại diện Hội, Đoàn thể nhận ủy thác quản lý tổ TK&VV đó và trưởng thôn/ấp/khu phố nơi tổ TK&VV hoạt động.
Tổ TK&VV hoạt động không tách rời với ủy ban nhân dân cấp xã, tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác và Ngân hàng:
Tổ hoạt động theo nguyên tắc tập thể, biểu quyết theo đa số dưới sự điều hành của ban quản lý tổ (một tổ trưởng và một tổ phó). Trong quy trình cho vay, họp bình xét cho vay là điều kiện tiên quyết để xét cho vay. Sau khi tiếp nhận đề nghị vay vốn từ phía hộ vay là thành viên của tổ (nếu chưa thì cần được xét kết nạp vào tổ), tổ trưởng tổ TK&VV chủ trì buổi họp bình xét cho vay, trong đó hộ vay có nhu cầu vay vốn nhất thiết phải được sự chấp thuận bằng biểu quyết của ít nhất 2/3 tổ viên tổ TK&VV hiện diện tại buổi họp bình xét công khai về vay vốn, với điều kiện phải có ít nhất 2/3 tổ viên tổ TK&VV đến dự buổi họp. Toàn bộ nội dung cuộc họp đều được ghi thành biên bản, gọi là biên bản họp tổ, do tổ phó là thư ký ghi chép lại. Buổi họp có sự chứng kiến của đại diện Hội, Đoàn thể nhận ủy thác quản lý tổ TK&VV đó và trưởng thôn/ấp/khu phố nơi tổ TK&VV hoạt động.
Tổ TK&VV hoạt động không tách rời với ủy ban nhân dân cấp xã, tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác và Ngân hàng:
- Trong mối quan hệ với ủy ban nhân dân cấp xã: tổ chịu sự chỉ đạo, quản lý, kiểm tra trực tiếp của ủy ban nhân dân cấp xã. Việc thành lập, thay đổi ban quản lý tổ hoặc giải thể tổ đều phải có sự chấp thuận của ủy ban nhân dân cấp xã.
- Trong mối quan hệ với Hội, Đoàn thể nhận ủy thác: tổ phải phối hợp với Hội, Đoàn thể; chịu sự giám sát, theo dõi của Hội, Đoàn thể.
- Trong mối quan hệ với Ngân hàng: Ngân hàng và đại diện ban quản lý tổ TK&VV ký kết hợp đồng ủy nhiệm quy định rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Ngân hàng có trách nhiệm theo dõi, giám sát hoạt động của tổ, đồng thời phối hợp với UBND cấp xã và Hội, Đoàn thể nhận ủy thác tổ chức thực hiện việc đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, quản lý cho ban quản lý tổ. Đối với các ban quản lý tổ TK&VV được Ngân hàng ủy nhiệm thu lãi, thu tiết kiệm thì hàng tháng sẽ thực hiện thu tiền lãi vay và tiền gửi tiết kiệm của tổ viên trong tổ, sau đó nộp cho Ngân hàng vào ngày giao dịch cố định tại điểm giao dịch xã.
điểm giao dịch xã
Để hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác tiếp cận thuận lợi với Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng đưa các hoạt động nghiệp vụ về phục vụ ngay tại điểm giao dịch xã (xã/phường/thị trấn) thông qua hoạt động của tổ giao dịch xã. Điểm giao dịch xã được hiểu là nơi Ngân hàng tổ chức giao dịch với khách hàng, tổ chức, cá nhân liên quan trên địa bàn một xã, được đặt trong khuôn viên trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã. Phiên giao dịch xã diễn ra vào ngày cố định hàng tháng, kể cả ngày lễ hoặc ngày nghỉ cuối tuần, và chỉ thực hiện giao dịch bù vào ngày khác nếu ngày giao dịch cố định tháng đó trùng vào ngày nghỉ Tết Nguyên đán. Các ngày giao dịch cố định của từng xã được niêm yết trên website của Ngân hàng Chính sách xã hội. Đến cuối 2017 Ngân hàng có trên 10.900 điểm giao dịch xã.
Hoạt động giao dịch lưu động tại xã do một tổ giao dịch thực hiện. Tổ này là một phận nghiệp vụ gồm tối thiểu ba nhân viên, có trách nhiệm phổ biến, tuyên truyền và công khai chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác; tiếp nhận hồ sơ vay vốn, giải ngân, thu nợ, thu lãi, thu tiết kiệm và thực hiện quy trình xử lý nợ, họp giao ban với tổ trưởng tổ TK&VV và các tổ chức Hội, Đoàn thể nhận ủy thác. Việc tổ chức giao dịch vào ngày cố định tại điểm giao dịch xã được xem là phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác thực hiện chức năng phản biện xã hội, tạo mối quan hệ gần gũi giữa nhân viên ngân hàng với người dân.
Ngoài Ngân hàng Chính sách xã hội, từ năm 2017 có thêm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) thực hiện hình thức điểm giao dịch lưu động. Tuy nhiên, Agribank thực hiện giao dịch ngay trên ô tô chuyên dùng.
Hoạt động giao dịch lưu động tại xã do một tổ giao dịch thực hiện. Tổ này là một phận nghiệp vụ gồm tối thiểu ba nhân viên, có trách nhiệm phổ biến, tuyên truyền và công khai chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác; tiếp nhận hồ sơ vay vốn, giải ngân, thu nợ, thu lãi, thu tiết kiệm và thực hiện quy trình xử lý nợ, họp giao ban với tổ trưởng tổ TK&VV và các tổ chức Hội, Đoàn thể nhận ủy thác. Việc tổ chức giao dịch vào ngày cố định tại điểm giao dịch xã được xem là phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác thực hiện chức năng phản biện xã hội, tạo mối quan hệ gần gũi giữa nhân viên ngân hàng với người dân.
Ngoài Ngân hàng Chính sách xã hội, từ năm 2017 có thêm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) thực hiện hình thức điểm giao dịch lưu động. Tuy nhiên, Agribank thực hiện giao dịch ngay trên ô tô chuyên dùng.
Nghiệp vụ hiện hành
- Cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
- Nhận tiền gửi tiết kiệm
- Dịch vụ thanh toán ngân quỹ
- Nhận vốn ủy thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
- Giải ngân cho vay qua thẻ đối với chương trình cho vay học sinh-sinh viên có hoàn cảnh khó khăn
- Phát hành trái phiếu được Chính phủ Việt Nam bảo lãnh.
Các chương trình cho vay hiện hành
Hiện nay Ngân hàng Chính sách đang thực hiện cho vay các chương trình sau (nguồn vốn Trung ương):
- Cho vay hộ nghèo theo Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ
- Cho vay hộ nghèo tại 64 huyện nghèo
- Cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 33/2015/QĐ-TTg ngày 10 tháng 8 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ (thay thế Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg)
- Cho vay hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt khu vực miền Trung theo Quyết định số 48/2014/QĐ-TTg ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ
- Cho vay hộ cận nghèo theo Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23 tháng 2 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ
- Cho vay hộ mới thoát nghèo theo Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg ngày 21 tháng 7 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ
- Cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ
- Cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm theo Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 9 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ
- Cho vay hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm đối với người lao động bị thu hồi đất theo Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg ngày 10 tháng 12 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ
- Cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn theo Quyết định số 62/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ
- Cho vay đi làm việc ở nước ngoài đối với người lao động thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số
- Cho vay hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020
- Cho vay đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 9 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm
- Cho vay đi làm việc ở nước ngoài đối với người lao động bị thu hồi đất theo Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg ngày 10 tháng 12 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ
- Cho vay để ký quỹ đối với người lao động đi làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc
- Cho vay hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg ngày 5 tháng 3 năm 2007 và Quyết định 306/2016/QĐ-TTg ngày 26 tháng 2 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ
- Cho vay thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn
- Cho vay dự án phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (vốn của Ngân hàng Tái thiết Đức - KfW)
- Cho vay dự án phát triển ngành lâm nghiệp (vay vốn của Ngân hàng Thế giới - WB)
- Cho vay trồng rừng sản xuất, phát triển chăn nuôi theo nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 9 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ giai đoạn 2015-2020
- Cho vay đối với hộ gia đình và người có HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương theo Quyết định số 29/2014/QĐ-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ
- Cho vay dự án IFAD và dự án RIDP tại Tuyên Quang (vay vốn của Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp - IFAD)
- Cho vay mua, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội.
Cho vay HSSV có hoàn cảnh khó khăn
Tại Ngân hàng Chính sách xã hội, chương trình tín dụng cho học sinh, sinh viên khó khăn được gọi là Cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Tiền thân của chương trình này là Chương trình cho vay từ Quỹ tín dụng đào tạo do Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank), nay là Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank) thực hiện từ năm 1998 đến năm 2002. Quỹ tín dụng đào tạo được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1998 theo Quyết định số 51/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để cho vay với lãi suất ưu đãi đối với sinh viên, học sinh đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Ban đầu Quỹ này được Chính phủ quy định quy mô 100 tỉ đồng, trong đó cấp ngân sách 30 tỉ đồng, còn lại do sự tự nguyện góp vốn của các ngân hàng thương mại, sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngày 1 tháng 7 năm 1998, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 218/1998/QĐ-NHNN1 giao Ngân hàng Công thương Việt Nam quản lý và cho vay từ Quỹ tín dụng đào tạo; Quyết định số 219/1998/QĐ-NHNN1 về việc ban hành "Thể lệ tín dụng đối với học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề".
Theo Ngân hàng Công thương, hầu hết ngân hàng thương mại không góp vốn cho Quỹ tín dụng đào tạo. Tính đến tháng 4 năm 2002, nguồn vốn của Quỹ chỉ là 65,5 tỉ đồng; dư nợ cho vay là 62 tỉ đồng. Vốn không quay vòng được do thời gian cho vay đến 10 năm, trong khi theo đánh giá của Vụ Công tác Chính trị (Bộ Giáo dục và Đào tạo) thì không hiếm học sinh, sinh viên ra trường nhưng không có sự tự giác trả nợ, góp phần khiến nguồn vốn từ quỹ gần như cạn kiệt.
Tháng 5 năm 2003, Ngân hàng Công thương bàn giao 76,37 tỉ đồng dư nợ chương trình Quỹ tín dụng đào tạo cho Ngân hàng Chính sách xã hội. Ngày 18 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh viên, thay thế Quyết định 51/1998/QĐ-TTg. Đến ngày 27 tháng 9 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg thay thế Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg. Qua một thập niên triển khai, Ngân hàng đã cho vay hơn 3,5 triệu lượt học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, doanh số cho vay có xu hướng suy giảm do mức cho vay thấp so với nhu cầu thực tế, hay do trường đào tạo chậm trễ trong thủ tục xác nhận sinh viên. Vẫn có những trường hợp chây ỳ, đùn đẩy trách nhiệm trả nợ hoặc trốn nợ đi làm ăn xa.
Theo Ngân hàng Công thương, hầu hết ngân hàng thương mại không góp vốn cho Quỹ tín dụng đào tạo. Tính đến tháng 4 năm 2002, nguồn vốn của Quỹ chỉ là 65,5 tỉ đồng; dư nợ cho vay là 62 tỉ đồng. Vốn không quay vòng được do thời gian cho vay đến 10 năm, trong khi theo đánh giá của Vụ Công tác Chính trị (Bộ Giáo dục và Đào tạo) thì không hiếm học sinh, sinh viên ra trường nhưng không có sự tự giác trả nợ, góp phần khiến nguồn vốn từ quỹ gần như cạn kiệt.
Tháng 5 năm 2003, Ngân hàng Công thương bàn giao 76,37 tỉ đồng dư nợ chương trình Quỹ tín dụng đào tạo cho Ngân hàng Chính sách xã hội. Ngày 18 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh viên, thay thế Quyết định 51/1998/QĐ-TTg. Đến ngày 27 tháng 9 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg thay thế Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg. Qua một thập niên triển khai, Ngân hàng đã cho vay hơn 3,5 triệu lượt học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, doanh số cho vay có xu hướng suy giảm do mức cho vay thấp so với nhu cầu thực tế, hay do trường đào tạo chậm trễ trong thủ tục xác nhận sinh viên. Vẫn có những trường hợp chây ỳ, đùn đẩy trách nhiệm trả nợ hoặc trốn nợ đi làm ăn xa.
Cho vay nhà ở xã hội
Cho vay nhà ở xã hội là chương trình mới của Ngân hàng Chính sách xã hội, thực hiện theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ, bắt đầu cho vay từ năm 2018 nhưng các bước chuẩn bị về nghiệp vụ đã thực hiện từ 2016. Theo số liệu của Bộ Xây dựng Việt Nam, nhu cầu căn hộ nhà ở xã hội giai đoạn 2011 - 2020 là khoảng 440.000 căn, tương ứng với hàng trăm ngàn hộ gia đình. Năm 2018, tổng cộng nguồn vốn là 1.000 tỉ đồng, trong đó Chính phủ cấp 500 tỉ và Ngân hàng huy động 500 tỉ. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được cấp 50 tỉ đồng/đô thị, còn lại được phân cho các tỉnh thành khác. Dự kiến đến năm 2020 tổng nguồn vốn riêng chương trình Nhà ở xã hội là 2.263 tỉ đồng, nhưng lãnh đạo Ngân hàng thừa nhận theo tính toán cần có 18.000-19.000 tỉ đồng mới đáp ứng đủ nhu cầu.
Chương trình cho vay nhà ở xã hội có một số đặc điểm như sau:
Đối tượng vay:
Lãi suất cho vay: Được Thủ tướng Chính phủ ban hành từng thời kỳ. Năm 2018: 4,8%/năm; năm 2019: 4,8%/năm.
Hạn mức cho vay:
Chương trình cho vay nhà ở xã hội có một số đặc điểm như sau:
Đối tượng vay:
- Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng
- Người thu nhập thấp, hộ nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị
- Người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp
- Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân và quân đội nhân dân
- Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức
Lãi suất cho vay: Được Thủ tướng Chính phủ ban hành từng thời kỳ. Năm 2018: 4,8%/năm; năm 2019: 4,8%/năm.
Hạn mức cho vay:
- Mua/thuê mua nhà ở xã hội để ở: Mức vốn cho vay tối đa bằng 80% giá trị hợp đồng mua, thuê mua nhà ở xã hội.
- Sửa chữa, xây mới nhà để ở: Mức vốn cho vay tối đa bằng 70% giá trị dự toán hoặc phương án tính toán giá thành và không vượt quá 70% giá trị tài sản bảo đảm tiền vay.
- Mua/thuê mua nhà ở xã hội để ở: Tài sản hình thành từ vốn vay theo quy định của pháp luật
- Sửa chữa, xây mới nhà để ở: Giá trị quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở hoặc tài sản khác theo quy định của pháp luật.